• en
  •  
  • vi

Tảo mai (kỳ 2)

Tảo mai — Hoa mai nở sớm (kỳ 2)

Trần Nhân Tông
 
Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn,
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn (căn).
Ảnh hoành thuỷ diện băng sơ bạn,
Hoa áp chi đầu noãn vị phân.
Thuý vũ ca trầm sơn điếm nguyệt,
Hoạ long xuy thấp Ngọc Quan vân.
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng,
Giác hậu bất kham trì tặng quân
 
 
Dịch nghĩa:
Chỉ năm ngày sợ rét lười ra khỏi cửa,
Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn.
Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan,
Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ.
Giọng ca Thuý vũ lắng chìm mặt trăng quán núi.
Tiếng sáo Hoạ long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan.
Một cành hoa lạc vào giấc mộng cố nhân,
Tỉnh dậy, không thể đem tặng anh được.
 
Dịch thơ:
Năm ngày sợ rét lười ra cửa
Gió xuân đã tới gốc mai đùa
Bóng in mặt nước băng vừa rạn
Hoa trĩu đầu cành ấm vẫn chưa
Điệu Thuý Vũ chìm trăng quán núi
Sáo Hoạ Long ướt Ngọc Quan mưa
Một nhành lạc giấc mơ người cũ
Tỉnh rồi không giữ được mà đưa
 
Phần chữ chủ yếu là hành thư của Vương Hy Chi, thư pháp gia nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông sống vào đời nhà Tấn và là người có ảnh hưởng lớn tới sự tiến hóa thư pháp của người Trung Quốc, từ lệ thư cục mịch theo khối vuông thời Tần Hán chuyển thành lối viết khải thư thanh thoát.
 
Phần hình khắc hoạ không gian cuối đông đầu xuân của bài thơ. Dù dấu ấn lạnh lẽo của mùa đông vẫn còn (liễu úa, sen khô và sương mù) nhưng cành hồng mai nở rộ báo hiệu tiết Xuân đang về. Sự hiện diện phong phú của các giống vật từ vịt, chim, cá, bọ cánh cứng, gọng vó, … phản ánh sức sống mãnh liệt của muôn loài. Tôi không thể hiện mặt băng tan vì nó phi lý với thời tiết nước ta nhưng đưa vào hình ảnh con chim trả (bói cá) đậu trên cành mai, minh họa cho câu 5 của bài thơ.
 
Với tôi, "Tảo mai" kỳ 2 lý thú và giầu cảm xúc hơn kỳ 1. Tôi đã phải khảo cứu để thực sự hiểu được ý tứ từng câu thơ của Trần Nhân Tông. Thiết nghĩ, nên giải thích cặn kẽ hơn về các điển cố được nhắc tới trong các câu 5, 6 và 8 của bài.
 
Câu năm “Thuý vũ ca trầm sơn điếm nguyệt” (Giọng ca Thuý vũ lắng chìm mặt trăng xóm núi) là dựa theo bài “Thuý vũ ngâm” của Tưởng Tiệp đời Nam Tống. “Thuý vũ” là những chiếc lông xanh của chim trả, chỉ loài chim này. Đoạn kết của bài “Thuý vũ ngâm” như sau: “Mộng tỉnh tầm ngân phóng tung, đãn lưu tàn nguyệt quải dao khung. Mai hoa vị lão, thuý vũ song ngâm, nhất phiến hiểu phong”. Nghĩa là: “Tỉnh mộng đi tìm dấu vết (người đẹp), chỉ thấy lưu lại vầng trăng tàn treo phía trời xa. Hoa mai chưa già, đôi chim trả đua nhau hót, một vách núi buổi sớm”. Tưởng Tiệp chú giải là mình viết “Thuý vũ ngâm” theo một làn điệu của nước Việt (越) do người bạn Vương Quân Bản giới thiệu, có tên là “Tiểu hoa mai dẫn”.
 
Câu sáu "Hoạ long xuy thấp Ngọc Quan vân" (Tiếng sáo Hoạ long làm ẩm ướt đám mây Ngọc Quan) lấy ý tưởng từ bài “Lương Châu từ” của Vương Chi Hoán đời Đường. Bài thơ nói về nỗi niềm của người lính đồn trú nơi quan ải xa xôi khi mùa xuân tới. “Ngọc Quan” là Ngọc Môn Quan, cửa ải phân cách giữa Trung Quốc và Tây Vực, lập ra từ thời Hán Vũ Đế. Nó nằm trên con đường tơ lụa, giữa vùng sa mạc khô cằn gần như không có mưa. Còn “hoạ long” là cây sáo của người Hồ, từ chỉ chung các bộ tộc du mục ở Tây Vực (Trung Á ngày nay).
 
Bài “Lương châu từ” như sau:
Hoàng Hà viễn thướng bạch vân gian,
Nhất phiến cô thành vạn nhận san.
Khương địch hà tu oán “Dương liễu”,
Xuân phong bất độ Ngọc Môn quan
 
Nghĩa là:
Xa xa, sông Hoàng Hà leo lên tận khoảnh mây trắng
Một toà thành cô quạnh, muôn trượng núi cao
Tiếng sáo của người Khương cần chi thổi bài “Chiết liễu”
Vì có gió xuân nào qua cửa ải Ngọc Môn đâu!
 
Bản dịch của Nam Trân rất hay:
Hoàng Hà, mây trắng liền nhau
Thành côi một mảnh, núi cao tiếp trời
Thổi chi “Chiết liễu” sáo ơi
Gió Xuân đâu lọt ra ngoài Ngọc Môn
 
Câu thơ của Trần Nhân Tông vì vậy có thể hiểu là hoa mai nở sớm báo mùa xuân tới giống như tiếng sáo Hồ có thể làm tươi mát những đám mây trên ải Ngọc Môn Quan khô hạn.
 
Còn câu tám "Giác hậu bất kham trì tặng quân" (Tỉnh dậy, không thể đem tặng anh được) lấy ý tưởng từ bài “Tặng Phạm Diệp” của Lục Khải, nhà thơ thời Nam Bắc triều. Lục Khải cùng Phạm Diệp chơi thân với nhau, Lục Khải tử Giang Nam gửi một cành hoa mai đến Lũng Đầu cho bạn mình, đồng thời tặng bài thơ về hoa.
 
Chiết mai phùng địch sứ
Ký dữ Lũng Đầu nhân
Giang Nam vô sở hữu
Liêu tặng nhất chi Xuân
 
Nghĩa là:
Bẻ cành mai gặp sứ giả
Gửi cho người ở Lũng Đầu
Ở Giang Nam chẳng có gì cả
Tạm gửi tặng một nhành xuân vậy.
 
Cành mai trong thơ của Trần Nhân Tông lạc vào giấc mơ, nên khi tỉnh dậy ông không thể lấy đem tặng cho cố nhân. Rốt cuộc tôi cũng không hiểu cây mai của Trần Nhân Tông là hư bay thực nữa.
 
Cặp bài "Tảo mai" xứng đáng xếp vào những bài thơ hay nhất của Trần Nhân Tông.
Tác giả tranh: Phạm Thúc Trương Lương, thành viên HĐQT Tinhvan Group, Tổng giám đốc Tinhvan Software.